Từ ngày 7 đến 16-9, ngừng cung cấp khí Nam Côn Sơn cho sản xuất điện
Thứ hai, 9/9/2013 | 08:08 GMT+7
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, từ ngày 7 đến 16-9, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN) sẽ ngừng cung cấp khí cho sản xuất điện để tiến hành sửa chữa bảo dưỡng hệ thống khí theo định kỳ. Cũng trong thời gian này, EVN thực hiện cắt điện để phục vụ thi công công trình đường dây 500kV Phú Mỹ - Sông Mây (mạch 1&2), thi công các khoảng néo đường dây 500kV Phú Mỹ - Sông Mây 02 mạch, các đường dây 220kV Phú Mỹ- Nhà Bè (2 mạch) và đường dây 220kV Phú Mỹ - Cát Lái (2 mạch). Thời gian cắt điện để thi công các công trình đường dây trên từ ngày 7 đến ngày 12-9 và đóng điện trở lại từ 4h - 16h mỗi ngày.
 |
Từ ngày 7 đến 16-9, PVN sẽ ngừng cung cấp khí cho sản xuất điện để tiến hành sửa chữa bảo dưỡng hệ thống khí theo định kỳ. Ảnh minh họa |
Nguồn khí thiên nhiên cung cấp cho các nhà máy điện tuabin khí (NMĐ) khu vực Đông Nam Bộ được lấy từ bể khí Nam Côn Sơn (NCS). Bể NCS hiện gồm các mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ, Hải Thạch, Mộc Tinh, Rồng Đôi… trong đó, mỏ Lan Tây với khả năng cấp tối đa 15 tr.m3/ngày, Rồng Đôi khả năng cápa tối đa 5 tr.m3/ngày và dự kiến sẽ đưa thêm mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh với khả năng cấp tối đa trong năm 2013 là 1.7 tr.m3/ngày. Tuy nhiên, hiện nay PVGas mới chỉ có chứng chỉ vận hành hệ thống cấp khí ở mức 21.5 tr.m3/ngày (không đủ vận hành tối đa tất cả các tổ máy TBK).
Ngoài nguồn khí Nam Côn Sơn còn có nguồn khí Cửu Long (khí đồng hành) hiện chủ yếu cung cấp cho các nhà máy Đạm Phú Mỹ, Vê Đan và các hộ thấp áp (khoảng 2.9 tr. m3/ngày), lượng dư còn lại rất ít cấp cho NMĐ Bà Rịa.
Kể từ khi chính thức đưa vào vận hành đến nay, hệ thống cung cấp khí NCS đã cung ứng lượng nhiên liệu rất lớn cho các NMĐ khu vực Đông Nam Bộ với tổng công suất đặt xấp xỉ 5300MW (chưa tính Hiệp Phước), chiếm 19% tổng công suất đặt toàn hệ thống, sản lượng điện huy động tối đa (tương ứng mức tiêu thụ khí 21.5 tr.m3/ngày) khoảng 118 tr.kWh, chiếm khoảng 31.4% sản lượng điện toàn hệ thống trong giai đoạn hiện nay. Có thể thấy hệ thống cung cấp khí NCS đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện cũng như tính kinh tế cho HTĐ Quốc gia.
Theo tính toán của Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia, để tối ưu kế hoạch huy động nguồn trong thời gian công tác hệ thống cung cấp khí NCS nhằm đảm bảo các mục tiêu: Vận hành an toàn, ổn định, tránh quá tải các máy biến áp và đường dây truyền tải, đảm bảo điện áp trên hệ thống điện miền Nam vận hành trong giới hạn cho phép, hạn chế tối đa việc cắt tải; giảm tối thiểu lượng dầu tiêu thụ trong thời gian cắt khí, đảm bảo hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn kinh tế; duy trì đủ số lượng tổ máy có hiệu suất tốt, có khả năng chạy dầu cũng như khả năng chuyển đổi nhiên liệu khí/dầu tốt để đáp ứng nhu cầu hệ thống một cách linh hoạt. Với dự kiến phụ tải HTĐ miền Nam (bao gồm cả sản lượng điện bán cho Campuchia) với công suất cao nhất là 180MW và thấp nhất là 44MW, sản lượng 3 triệu kWh/ngày thì sẽ khả dụng tất cả các tổ máy thủy điện ở phía Nam, nhà máy nhiệt điện Formosa, các thủy điện nhỏ, các nguồn chạy dầu, Nhà máy nhiệt điện Cà Mau.
Hiện nay, HTĐ miền Nam có khả năng nhận điện từ HTĐ Quốc gia qua các đường dây 500kV Phú Lâm - Đăk Nông và Plêiku - Di Linh; đường dây 220kV Đăk Nông - Bình Long, cụ thể: Đường dây 220kV Đăk Nông - Bình Long hỗ trợ cho lưới miền Nam nhằm giảm lượng dầu tiêu thụ, Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia đã thực hiện kết dây để các nhà máy Đăk R’Tih, Đồng Nai 3 và Đồng Nai 4 phát vào lưới miền Nam truyền tải công suất khoảng 440 MW để tránh quá tải đường dây 110 kV Bình Long 2 - Bình Long.
Đường dây 500kV Phú Lâm - Đăk Nông và Plêiku - Di Linh phải giới hạn công suất truyền tải khoảng 2000MW. Như vậy, khả năng nhận điện từ HTĐ QG khoảng 2440 MW.
Ngoài ra, Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia cũng tính toán kiểm tra chế độ cao điểm ngày chủ nhật, thấp điểm ngày thường, thấp điểm ngày chủ nhật. Để thực hiện được công tác này và đảm bảo chế độ vận hành của hệ thống điện miền Nam trong các giờ cao điểm cần huy động thêm lượng công suất khoảng 380MW từ cụm nhà máy chạy dầu.
Nhằm đảm bảo vận hành an toàn hệ thống cũng như để giảm thiểu lượng dầu huy động thì việc huy động tối đa các nhà máy thủy điện miền Nam trong thời gian công tác Hệ thống cung cấp khí NCS là hết sức cần thiết. Việc huy động tối đa trong giai đoạn này sẽ làm cho mức nước các hồ giảm mạnh (nếu lưu lượng nước về thấp), do vậy sẽ hạn chế khai thác trong các giai đoạn không có công tác để có thể dâng mức nước các hồ xấp xỉ mức dâng bình thường vào cuối năm.
Bên cạnh đó, EVN yêu cầu rà soát lại các bộ tụ bù hệ thống lưới điện Miền Nam bao gồm cả các tụ trung, hạ áp, đảm bảo đáp ứng vô công tốt nhất, chuẩn bị sẵn sàng các phương án ứng phó trong trường hợp sự cố các tổ máy lớn hoặc trong trường hợp các tổ máy chạy dầu không thành công, cập nhật lại phương án cắt tải 110kV phù hợp với tình hình thực tế để đề phòng trường hợp phải cắt tải trong các tình huống khẩn cấp; các Công ty truyền tải điện 3, 4 phải đảm bảo tiến độ các công trình lưới điện và tăng cường trực vận hành, ứng phó nhanh với các tình huống bất thường trên lưới điện truyền tải.
Dự kiến tổng sản lượng huy động từ các nguồn chạy bằng nhiên liệu dầu trong thời gian công tác Hệ thống cung cấp khí NCS khoảng 358.9 tr.kWh (gồm 321.4 triệu kWh chạy bằng dầu DO và 37.4 triệu kWh chạy bằng dầu FO). Trong thời gian này, Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia phải liên tục cập nhật, điều chỉnh kế hoạch huy động theo tình hình thực tế của hệ thống để giảm thiểu tối đa lượng dầu cần huy động; các tổ máy tua bin khí có khả năng chạy dầu phải sẵn sàng trong thời gian này.
Để giảm thiểu lượng dầu phải tận dụng khả năng truyền tải của các đường dây 500kV và 220kV để truyền tải công suất từ miền Bắc và miền Trung vào miền Nam, khai thác tối đa các nguồn không chạy dầu miền Nam (như thủy điện, Cà Mau, Formosa). Do giá thành cao, nên các tổ máy dầu đơn (TBK dầu Thủ Đức, Cần Thơ) chỉ huy động trong thời gian ngắn để phủ đỉnh, bù điện áp hoặc trong các tình huống bất thường nhằm đảm bảo chế độ vận hành của hệ thống./
Thanh Mai / icon.com.vn