Tin ngành Điện

Tăng trưởng xanh (kỳ 2): Việt Nam cần làm gì?

Thứ ba, 20/8/2013 | 10:02 GMT+7
Theo giới phân tích, lợi ích mà tăng trưởng xanh đem lại rất to lớn. Cụ thể, Việt Nam đang gia nhập các nước đang phát triển khác có thu nhập trung bình và cùng thế giới đấu tranh với các nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu. Do vậy, càng lựa chọn con đường phát triển với mức các bon thấp sẽ cho phép Việt Nam phát triển các ngành công nghiệp xanh mới,tạo ra các sản phẩm mới và sạch cũng như mở ra cơ hội nâng cao tính cạnh tranh và tạo việc làm.


Việt Nam không thể chậm trễ trong tăng trưởng xanh. Ảnh: Ngọc Thọ

Chiến lược Tăng trưởng Xanh sẽ giúp Việt Nam bảo vệ và đạt được nhiều thành quả hơn để đảm bảo mọi người dân Việt Nam đều có quyền sử dụng năng lượng. Đây là một trong các mục tiêu đặt ra trong sáng kiến của Liên Hợp Quốc đó là “Năng lượng Bền vững cho tất cả Mọi người”.

Bà Louise Chamberlain - Giám đốc UNDP Việt Nam khẳng định, việc theo đuổi một nền kinh tế xanh sẽ giúp Việt Nam cải tổ cơ cấu kinh tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng cũng như tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực và giá trị gia tăng của khu vực sản xuất. Đây có thể xem là “bước đột phá”  trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho thời gian tới.

Trên góc độ chuyên gia nhiều năm kinh nghiệm tham vấn về tăng trưởng xanh cho nhiều chính phủ các nước đang phát triển, bà Louise Chamberlain khuyến nghị: “Chiến lược Tăng trưởng xanh và Chiến lược Đối phó với biến đổi khí hậu là bước tiến và động lực rất quan trọng, song các hiệp định quốc tế và các cam kết của Việt Nam chưa được phản ánh trong các văn bản luật. Một khung pháp lý mạnh mẽ sẽ góp phần định hướng cho các hoạt động ưu tiên trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và các hoạt động này cũng mang lại những lợi ích về kinh tế, xã hội cũng như những lợi ích khác về môi trường. Việt Nam cũng cần có trách nhiệm đảm bảo đầu tư hợp lý cũng như chi tiêu ngân sách một cách hiệu quả. Và sự nỗ lực cải cách để thực hiện Chiến lược Tăng trưởng xanh là điều không thể thiếu, quyết định thành công của chiến lược”.

Theo bà Pratibha Mehta - Điều phối viên Liên hợp quốc tại Việt Nam, để thực hiện tăng trưởng xanh và đem lại kết quả như mong đợi thì thứ nhất là huy động nguồn lực để thực hiện Chiến lược cần được ưu tiên hàng đầu. Việt Nam cần một cơ cấu tài chính và các chính sách tín dụng hỗ trợ nhằm huy động, kết hợp hiệu quả và quản lý tài chính công cũng như tư, quốc tế lẫn quốc gia cho các hoạt động đầu tư xanh. Để làm được điều này cần áp dụng kinh nghiệm quốc tế và LHQ cũng như các đối tác phát triển khác cần giúp xây dựng cơ cấu này, đồng thời giúp xây dựng nguồn nhân lực cần thiết và các hệ thống điều phối.

Thứ hai, với Việt Nam, sự tham gia và đóng góp của khu vực tư nhân là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp hiện đang có những hành động thiết thực để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, xây dựng các ngành công nghiệp xanh và năng lượng tái tạo cũng như tiến tới sử dụng các công nghệ mới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần dự đoán trước về nguồn thu, về mức độ ổn định kinh tế lâu dài, về sự minh bạch trong quy chế và một sân chơi công bằng. Cần đối thoại chặt chẽ với các doanh nghiệp trong nước và trong khu vực FDI để dỡ bỏ các rào cản cho khu vực tư nhân đối với đầu tư sạch trên quy mô lớn.

Thứ ba, cải cách tài chính là vấn đề đặc biệt quan trọng, nhất là trong ngành năng lượng. Xóa bỏ tình trạng trợ giá sẽ đảm bảo tăng trưởng nhanh hơn, tình hình an ninh năng lượng quốc gia tốt hơn và sẽ giúp tạo ra những việc làm xanh mới.

Và cuối cùng, điều quan trọng là phải xem xét và lồng ghép bình đẳng xã hội bao gồm bình đẳng giới vào thực hiện Chiến lược Tăng trưởng Xanh. Đơn cử, giá năng lượng thiết thực hơn sẽ giúp cho các ngành công nghiệp có hiệu quả năng lượng cao phát đạt. Một con đường tăng trưởng xanh có thể tác động tích cực tới các cơ hội việc làm cho phụ nữ và các nhóm chịu thiệt thòi nếu một phần trong chương trình cải cách là vấn đề giới và phân tích xã hội rộng hơn cũng như các chính sách hỗ trợ. Điều này có thể thực hiện được thông qua tập huấn mục tiêu về công việc trong các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ sạch và tiết kiệm năng lượng.

“Cần đưa quan điểm phát triển xanh và tiêu chí xanh vào công tác quy hoạch, thiết kế, xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị như: cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, cung cấp năng lượng, viễn thông, phát triển mạng lưới giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và không gian xanh đô thị. Kế đến là phải ưu tiên phát triển hạ tầng đô thị xanh với hệ thống giao thông xanh, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải; sử dụng năng lượng tái tạo, đổi mới và sử dụng công nghệ, kỹ thuật, vật liệu sạch. Ngoài ra, phải tiếp cận, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học - công nghệ trong phát triển công trình xanh, đô thị xanh. Và yếu tố cuối cùng là phải tuyên truyền, vận động khuyến khích cộng đồng xã hội tham gia phát triển đô thị xanh, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, bảo vệ môi trường; có chính sách thu hút các nhà tài trợ, các tổ chức phát triển, các nhà đầu tư tham gia xây dựng và phát triển công trình xanh, đô thị xanh; có chính sách để phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh là một hướng ưu tiên trong phát triển đô thị Việt Nam” - Thứ trưởng Bộ Xây Dựng Việt Nam Nguyễn Thanh Nghị gợi ý về phương pháp thực hiện tăng trưởng xanh trong thời gian tới.

“Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”:

Giai đoạn 2011 - 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế.

Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5 - 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế.

Định hướng đến năm 2050: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5 - 2%.

Xanh hóa sản xuất đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP.

Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V và các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn, diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh phấn đấu đạt 50%.

Ngọc Thọ /icon.com.vn