Tăng trưởng xanh - chìa khóa sử dụng năng lượng bền vững
Thứ sáu, 16/8/2013 | 14:15 GMT+7
Chiến lược Tăng trưởng xanh của Việt Nam đề ra một số mục tiêu rõ ràng như giảm bớt cường độ phát thải khí nhà kính khoảng 8 - 10% vào năm 2020 so với mốc năm 2010. Tuy nhiên theo góc nhìn của giới hoạch định, phân tích để đạt được chỉ tiêu cần những biện pháp thực thi táo bạo, sáng tạo và có sự ủng hộ đồng thuận của cả xã hội.
Kỳ 1: Việt Nam - Tăng trưởng nhưng chưa “xanh”
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt được gần 1 năm qua (ngày 25/9/2012). Theo đó, Việt Nam sẽ hướng tới mục tiêu tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có, khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; Xây dựng lối sống thân thiện với môi trường, tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Đây là những nhiệm vụ hết sức nặng nề. 
Hiệu quả sử dụng năng lượng của Việt Nam còn thấp. Ảnh: Ngọc Thọ
Nhìn lại quá trình đổi mới kinh tế từ giữa thập kỷ 1980 và việc thực hiện Định hướng Chiến lược Phát triển Bền vững, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn thể hiện ở, ví dụ, tốc độ tăng trưởng khá cao, những cải thiện rõ rệt ở cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần của người dân, sự phát triển rộng rãi của hệ thống phúc lợi và an ninh xã hội, và sự quan tâm ngày càng tăng cũng như tiến bộ trong nhiều lĩnh vực bảo vệ môi trường ở trong nước. Tuy nhiên, còn đó nhiều điểm hạn chế và thiếu sót cần được giải quyết. Trong số đó là sức cạnh tranh chung của nền kinh tế còn thấp và tăng trưởng kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào các phương pháp sản xuất sử dụng nhiều vốn và khai thác nhiều tài nguyên. Công nghệ lạc hậu hiện vẫn còn được sử dụng nhiều trong công nghiệp làm trầm trọng thêm tính khẩn cấp của tình trạng suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vẫn ở mức thấp, phản ánh năng suất lao động thấp và việc sử dụng công nghệ, vốn, nguyên liệu và năng lượng còn kém hiệu quả. Đặc biệt, hiện nay những công nghệ, thiết bị cũ, lạc hậu vẫn còn đang được sử dụng trong nhiều lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng như: thép, xi măng và hóa chất, gây nên lãng phí lớn về nguyên nhiên liệu. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư rất ít cho nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ, mà cụ thể là chỉ ở mức khoảng 0,2% – 0,3% tổng doanh thu. Trong nước, việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng và nguyên liệu trên qui mô rộng vẫn chưa trở thành hiện thực, các ngành công nghiệp thân thiện với môi trường cũng như công nghiệp dịch vụ môi trường cũng chưa được phát triển. Hơn nữa, các doanh nghiệp và sản phẩm công nghiệp có tính cạnh tranh thấp so với các nước khác trong khu vực, và ngành công nghiệp tiếp tục phát thải nhiều chất thải chưa qua xử lý ra môi trường, làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Nhìn sang nước bạn
Có thể nói trong số những nước có xuất phát điểm và điều kiện tương đồng với Việt Nam thì Hàn Quốc là một trong những quốc gia thực hiện tốt tăng trưởng xanh và tăng trưởng xanh đem lại lợi ích to lớn cho kinh tế - xã họi của Hàn Quốc. Tuy là quốc gia không có nhiều tài nguyên thiên nhiên và 97% tổng nhu cầu năng lượng lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu. Quốc gia này cũng phải đối mặt với vấn đề thiếu nước sạch trong thời gian dài, đặc biệt là trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu ngày nay.
Bước ngoặt của Hàn Quốc là từ tháng 5/2008,, Hàn Quốc đã công bố Tầm nhìn mới với mô hình phát triển: Carbon thấp, tăng trưởng xanh, trong đó tập trung giải quyết ba mấu chốt đó là thách thức của biến đổi khí hậu, kinh tế suy giảm và thách thức về năng lượng.
Và chính sách này đã cho thấy thành công bước đầu nhờ thực hiện tăng trưởng xanh. Cụ thể, từ năm 2007 đến nay, ở Hàn Quốc, riêng ngành sản xuất năng lượng tái sinh mới, số doanh nghiệp đã tăng lên 2,2 lần, tạo ra số việc làm tăng lên 3,6 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng 5,9 lần, đầu tư tư nhân tăng năm lần. Mua sắm công cộng xanh năm 2005 mới chỉ đạt một nghìn tỷ won đến năm 2009 đã đạt tới hai nghìn tỷ won. Đèn hình LED, LED TV, pin thế hệ 2, thiết bị điện mặt trời, điện gió, điện hạt nhân... tăng về số lượng sản xuất và xuất khẩu.

Thiên đường sinh thái tại Suncheon (tỉnh Jeollanam-do) – Hàn Quốc. Ảnh Sucheon.kr Lấy ví dụ tại những ngôi làng thuộc Suncheon (tỉnh Jeollanam-do), người dân ở đây đã thực hiện triệt để việc không sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học trong sản xuất nông nghiệp. Chính quyền và người dân vận động thiết lập nên một khu bảo tồn sinh thái rộng hàng triệu m2. Những lối sống, tập quán canh tác ảnh hưởng đến môi trường được thay thế bằng hành động bảo vệ môi trường. Và giờ đây, Suncheon đã trở thành phim trường cho những bộ phim cổ trang với bối cảnh từ hàng nghìn năm trước. Hệ động, thực vật cũng chuyển biến theo hướng tích cực khi từ việc chỉ có 79 loài chim di cư năm 1996, đến năm 2010, số chim di cư tại Suncheon đã tăng lên đến 525 loài. Mỗi năm, người ta đếm được có đến 235 loài chim thường đến nơi đây trong mùa di cư, trong đó có những loài quý hiếm đã được liệt vào Sách đỏ như Sếu có mào (đã xuất hiện cách đây 40 triệu năm cùng với khủng long). Hiệu quả trông thấy rõ là đến 2012, nơi đây đã thu hút hơn 3 triệu lượt khách tham quan, du lịch.
“Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”: Giai đoạn 2011 - 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5 - 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2050: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5 - 2%. Xanh hóa sản xuất đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP. Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V và các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn, diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh phấn đấu đạt 50%. |
Ngọc Thọ /icon.com.vn