Tin ngành Điện

Kỳ 2: Mục tiêu quá lớn - cần sớm điều chỉnh

Thứ ba, 17/12/2013 | 07:43 GMT+7

Khó khăn lớn nhất của EVN là xoay đủ vốn cho các dự án điện. Ảnh: Ngọc Thọ
 
Quy hoạch xa thực tế
 
Theo lãnh đạo EVN, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trong các giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 (Qui hoạch điện VII) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 21/7/2011, Tập đoàn Điện lực Việt Nam được giao đầu tư và đưa vào vận hành 61 tổ máy thuộc 28 dự án nguồn điện với tổng công suất 19.164 MW. Tiến độ theo từng giai đoạn cụ thể: Giai đoạn 2011-2015: đưa vào vận hành 34 tổ máy thuộc 16 dự án nguồn điện, với tổng công suất 9.738 MW; Giai đoạn 2016-2020: đưa vào vận hành 27 tổ máy thuộc 13 dự án nguồn điện, với tổng công suất 9.426 MW.
 
Về khả năng thực hiện, giai đoạn 2011-2015, thực tế qua 3 năm đầu của giai đoạn này, EVN đã đầu tư và đưa vào vận hành 22 tổ máy thuộc 10 dự án nguồn điện mới, với tổng công suất 4.838 MW, đạt 50% khối lượng được giao trong giai đoạn 2011-2015.
 
Dự kiến trong 2 năm 2014-2015, EVN tiếp tục đưa vào vận hành 14 tổ máy thuộc 9 dự án nguồn điện mới, với tổng công suất 4.946 MW.
 
Như vậy, tính chung cả giai đoạn 2011-2015, Tập đoàn đưa vào vận hành 36 tổ máy, với tổng công suất là 9.784MW bằng 100,8% so Quy hoạch điện VII.
 
Đấy là chưa kể, giai đoạn 2016-2020, dự kiến hoàn thành đưa vào vận hành thêm 4.920MW công suất các nhà máy điện.
 
Theo báo cáo của EVN, giai đoạn 2011-2015, tổng nhu cầu đầu tư trong giai đoạn 2011-2015 của toàn Tập đoàn là 501.470 tỷ đồng (bình quân trên 100.000 tỷ đồng/ năm). Bao gồm nhu cầu vốn đầu tư thuần là 378.800 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho các dự án nguồn điện 225.282 tỷ đồng, chiếm 59,6%; trả nợ gốc và lãi vay là 130.668 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư thực hiện trong 3 năm 2011-2013 đạt 240.000 tỷ đồng, trong đó đầu tư vào nguồn điện ước khoảng 106.000 tỷ đồng.
 
Còn giai đoạn 2016-2020, theo như tính toán, tổng nhu cầu đầu tư của Tập đoàn giai đoạn 2016-2020 dự kiến khoảng 750.000 tỷ đồng (bình quân 150.000 tỷ đồng /năm). Bao gồm nhu cầu vốn đầu tư thuần là 552.000 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho các dự án nguồn điện là 318.600 tỷ đồng, chiếm 57,7%. Và trả nợ gốc và lãi vay khoảng: 198.000 tỷ đồng. Được biết, trong đó khoảng 500.000 tỷ đồng đang được Tập đoàn đàm phán thoả thuận với một số tổ chức tín dụng để vay vốn, còn lại khoảng 250.000 tỷ đồng hiện phải tiếp tục tìm kiếm đối tác.
 
Khó xoay đủ vốn
 
Thực tế, trong thời gian qua, công tác thu xếp vốn và đầu tư xây dựng các dự án điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam nói chung và nguồn điện nói riêng gặp không ít khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính trên thế giới đã tác động trực tiếp đến tình hình tài chính của Việt Nam, hoạt động sản xuất kinh doanh điện và đầu tư của Tập đoàn tiếp tục chịu ảnh hưởng lớn, rủi ro của các yếu tố đầu vào cơ bản như giá nhiên liệu, biến động tỷ giá ngoại tệ, cơ cấu sản lượng điện phát, chính sách tín dụng, tiền tệ. Khối lượng đầu tư nguồn và lưới điện trong Quy hoạch điện VII đòi hỏi nhu cầu vốn quá lớn, trong khi giá điện chưa thu hút đầu tư, tình hình tài chính của Tập đoàn lại đang trong tình trạng lỗ nên việc huy động vốn đầu tư càng trở nên khó khăn.
 
Đối với nguồn vốn tự tích lũy, trong giai đoạn 2011-2020, nguồn vốn khấu hao cơ bản của Công ty Mẹ Tập đoàn và các Tổng công ty phát điện chỉ đáp ứng nhu cầu trả nợ gốc và lãi vay các hợp đồng tín dụng, phần còn lại dùng để đầu tư các dự án điện rất thấp. Và lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh của Tập đoàn không đáng kể do các chi phí đầu vào tăng nhanh và do diễn biến thời tiết khó lường trước, phải phát các nguồn đắt tiền. Rồi nguồn thu từ cổ phần hoá không đạt được như kỳ vọng. Do đó trong các năm tới Tập đoàn sẽ rất khó khăn trong việc huy động vốn tự tích luỹ để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các dự án.
 
Theo ông Cát Quang Dương - Đại diện Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030, dự kiến đến năm 2020 nhu cầu vốn đầu tư cho ngành điện rất lớn khoảng 929.700 tỷ đồng, tương đương 48,8 tỷ USD, tính bình quân mỗi năm ngành điện cần khoảng 4,9 tỷ USD. Tuy nhiên, thời gian qua việc thu xếp cho các doanh nghiệp ngành điện tại các tổ chức tín dụng gặp một số khó khăn như vốn đầu tư cho các dự án điện rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên tính hấp dẫn chưa cao; ngành điện chưa thu hút được nhiều vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhiệm vụ đầu tư phát triển ngành điện vẫn phần lớn do Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên gánh vác. Trong khi đó vốn tự có của EVN và các đơn vị thành viên chỉ có thể thu xếp được khoảng từ 20% đến 30% tổng mức đầu tư cho các dự án điện; còn lại chủ yếu là vốn vay.
 
Cũng theo vị đại diện khối ngân hàng này, thì dù Chính phủ đã có nhiều cải cách về chính sách giá điện trong thời gian qua nhưng chính sách giá điện hiện nay chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vào ngành điện. Mặt khác, tỷ suất lợi nhuận thấp dẫn đến khả năng trả nợ gốc và lãi không cao, hoặc tổ chức tín dụng phải cho vay với thời gian quá dài, tiềm ẩn rủi ro.
 
Đó là chưa kể việc cho vay đối với các dự án điện, đặc biệt là thủy điện vừa và nhỏ trong những năm gần đây bộc lộ nhiều rủi ro, khó khăn, gây tổn thất cho các tổ chức tín dụng.
 
Hơn nữa, một số dự án điện có yêu cầu công nghệ, kỹ thuật phức tạp vượt quá khả năng thẩm định của các tổ chức tín dụng như: dự án điện hạt nhân, điện mặt trời…
 
Phải sớm điều chỉnh quy hoạch
 
PGS, TS. Nguyễn Minh Duệ, Ủy viên thường trực Ban chấp hành Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học Năng lượng cho rằng phải sớm điều chỉnh QHĐ VII nhằm chính xác hóa nhu cầu đầu tư (Chính phủ cũng đã chỉ đạo).
 
Cụ thể, Bộ Công Thương cần rà soát, hiệu chỉnh QHĐ VII về dự báo phụ tải, các công trình nguồn, lưới điện; xác định nhu cầu vốn, cân đối tiến độ đầu tư các dự án điện trên toàn quốc phù hợp với năng lực tài chính và khả năng triển khai, tránh đầu tư dàn trải, dừng các dự án không hiệu quả trong thời gian quy họach, đặc biệt giai đoạn 2014 – 2020 .
 
Bên cạnh đó, cần tạo nguồn vốn bằng các các biện pháp truyền thống như để đảm bảo nguồn vốn tự có, EVN và các doanh nghiệp đầu tư dự án điện phải có lợi nhuận trên cơ sở nâng cao hiệu quả đầu tư và tiết giảm chi phí trong sản xuất các nhà máy điện, giảm tổn thất trên lưới truyền tải và phân phối điện. Về phía Nhà nước cần ban hành chính sách giá điện hợp lý, minh bạch; ban hành khung giá điện công khai và thống nhất để tạo điều kiện tốt cho hoạt động của thị trường điện. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm tạo thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
 
Và để đảm bảo nguồn vốn vay, Chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn quốc tế, đặc biệt vốn ODA đa phương và song phương; các ngân hàng trong nước tiếp tục đồng hành thu xếp vốn cho các DA nguồn và lưới điện nhằm tạo điều kiện cho EVN và ngành điện thực hiện tốt nhiệm vụ cung ưng điện. Các doanh nghiệp vay vốn phải tôn trọng các quy định về các hợp đồng vay trả vốn và lãi đúng kỳ hạn, giữ uy tín là khách hàng vay vốn.
 
Ngoài ra, cần thực hiện thị trường điện cạnh tranh, nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư dự án điện bởi phát triển thị trường điện cạnh tranh là xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới, là động lực cho hoạt động hiệu quả trong sản xuất kinh doanh điện và phát triển kinh tế xã hội. Hình thành và phát triển thị trường điện cạnh tranh là chiến lược phát triển dài hạn của ngành Điện Việt Nam đã được quy định trong Luật Điện lực (năm 2004) và Luật Điện lực sửa đổi (năm 2013), được cụ thể hóa trong Quyết định 26/2006/QĐ-TTg ngày 26 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ.
 
Và cuối cùng theo nhiều huyên gia, tái cơ cấu EVN là nhân tố quan trọng nhằm thu hút đầu tư DA điện. Đây cũng là thực hiện Nghị quyết TW3 khóa XI về tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế nhà nước, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1782/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN) giai đoạn 2012-2015”. Cũng theo khuyến nghị, từ kinh nghiệm ở một số nước cho thấy thực hiện tái cơ cấu và phát triển thị trường điện cạnh tranh là rất phức tạp do vậy phải hết sức cẩn trọng.


Kỳ 1: Nỗ lực lớn trong thu xếp vốn
Ngọc Thọ