Tin ngành Điện

Quy hoạch điện VII: Cần sớm điều chỉnh

Thứ hai, 16/12/2013 | 08:00 GMT+7
Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 (QHĐ VII) đặt mục tiêu xây dựng 54 nhà máy nhiệt điện (kể cả bổ sung), ấy là chưa kể một loạt các nhà máy nhiệt điện khí, thủy điện tích năng, điện hạt nhân. Nhu cầu đầu tư cho cả giai đoạn này lên tới gần 124 tỷ USD. Vấn đề đặt ra là quá khó để xoay sở đủ vốn cho số lượng dự án “khổng lồ” này và nên chăng cần điều chỉnh lại quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu phụ tải thực tế.

Nhiều công trình nguồn điện của EVN giữ vững tiến độ. Ảnh: Ngọc Thọ
 
Kỳ 1: Nỗ lực lớn trong thu xếp vốn
 
Kết quả đáng ghi nhận
Ông Dương Quang Thành - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam khẳng định, để thực hiện tốt công tác đầu tư xây dựng các công trình điện theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trong các giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025 (Qui hoạch điện VI) và giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã nỗ lực và tập trung mọi nguồn lực trong quá trình chỉ đạo điều hành cũng như trong công tác thi công xây dựng các dự án điện. Đối với công tác thu xếp vốn, EVN rất tích cực và chủ động tìm kiếm và đàm phán với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước để huy động các nguồn vốn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu đầu tư các dự án điện.
 
Cụ thể trong 5 năm (2006-2010), Tập đoàn đã đầu tư và đưa vào vận hành 25 tổ máy thuộc 19 dự án nguồn điện mới với tổng công suất 6.177 MW (kể cả đầu tư để mua điện Trung Quốc tăng thêm 940MW), đạt 79,9% tổng công suất nguồn của EVN được giao trong Qui hoạch điện VI.
 
Với kết quả này, Tập đoàn đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân,với tốc độ tăng điện thương phẩm bình quân giai đoạn 2006-2010 là 13,74%/năm (tăng gấp gần 2 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế 7%/năm).
 
Ông Cát Quang Dương - Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng có thể khẳng định EVN đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, năng lực tài chính và khả năng cung ứng điện cho phát triển KT-XH và phục vụ đời sống nhân dân đã được nâng cao một bước. Các dự án, công trình cấp bách đảm bảo được tiến độ yêu cầu hoàn thành nhiều công trình nguồn và lưới điện, bổ sung công suất cho hệ thống điện quốc gia; tình trạng thiếu điện phải cắt điện luân phiên đã giảm; tình trạng quá tải đường dây và trạm biến áp đang từng bước được khắc phục.
 
Còn nhiều khó khăn về vốn
 
Thực tế, nggành điện là ngành kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, có công nghệ phức tạp, mang tính đặc thù rất cao, đặc biệt đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn. Do đó, việc thu xếp nguồn vốn đầu tư cho phát triển Điện lực được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phải giải quyết trước tiên. Các dự án nguồn và lưới điện khi đã khẳng định được nguồn vốn sẽ là cơ sở để triển khai thành công các bước đầu tư.
 
Theo Quy hoạch điện VII (trong giai đoạn 2011-2020) thì chỉ riêng nhà máy nhiệt điện chạy than đã phải xây dựng 52 nhà máy, (cập nhật đến thời điểm này còn có thêm dự án nhà máy nhiệt điện là Vĩnh Tân IV (2x600MW) do EVN làm chủ đầu tư và dự án NMNĐ Dung Quất 2x600MW là dự án BOT Chính phủ đã giao cho Sembcorp của Singapore làm Chủ đầu tư. Như vậy tổng số dự án NMNĐ than của QHĐVII là 52 + 2 = 54 dự án. Ngoài ra còn có các nhà máy nhiệt điện chạy khí, thủy điện, thủy điện tích năng và cả nhà máy điện hạt nhân; đồng bộ với hệ thống nguồn là hệ thống truyền tải và phân phối điện trên phạm vi cả nước.
 
Về tổng nhu cầu vốn đầu tư cho toàn ngành điện trong giai đoạn 2011-2030 ước tính khoảng 123,8 tỷ USD. Trong đó giai đoạn 2011-2020 là 48,8 tỷ USD và giai đoạn 2021-2030 là 75 tỷ USD.
 
Tuy nhiên, đến nay việc triển khai các dự án còn rất chậm. Có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó chủ yếu vẫn là tình trạng thiếu vốn trầm trọng trong từng dự án, một số dự án chưa rõ nguồn vốn.
 
Lãnh đạo EVN cho hay, do tổng nhu cầu đầu tư các công trình điện rất lớn, nên Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài chính thời gian qua đã tác động trực tiếp đến tình hình tài chính của Việt Nam nói chung cũng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam nói riêng, các tổ chức tín dụng ngừng giải ngân làm cho các dự án thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng.
 
Đối với nguồn vốn tự tích lũy, trong giai đoạn 2011-2020, nguồn vốn khấu hao cơ bản của Công ty Mẹ Tập đoàn và các Tổng công ty phát điện chỉ đáp ứng nhu cầu trả nợ gốc và lãi vay các hợp đồng tín dụng, phần còn lại dùng để đầu tư các dự án điện rất thấp. Và lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh của Tập đoàn không đáng kể do các chi phí đầu vào tăng nhanh và do diễn biến thời tiết khó lường trước, phải phát các nguồn đắt tiền. Rồi nguồn thu từ cổ phần hoá không đạt được như kỳ vọng. Do đó trong các năm tới Tập đoàn sẽ rất khó khăn trong việc huy động vốn tự tích luỹ để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các dự án.
Ngọc Thọ