Theo Báo cáo đánh giá tác động của mực nước biển dâng đối với 84 nước đang phát triển được công bố bởi Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BÐKH và nước biển dâng, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long bị ngập chìm nặng nhất.
Cụ thể, nếu mực nước biển dâng 1 m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3 m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới 25%. Hậu quả của BÐKH đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.
Hầu hết các dự báo đều cho thấy, đến năm 2100, vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng, do tác động của BĐKH.
Và ngành trồng trọt sẽ là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi tổng sản lượng sản xuất trồng trọt có thể giảm từ 1-5%, năng suất các cây trồng chính có thể giảm đến 10%, đặc biệt đối với sản xuất lúa. Nước biển dâng cao làm xâm nhập mặn sâu hơn vào nội địa, có thể làm cho khoảng 2,4 triệu ha đất bị nước biển xâm nhập. Và khi mực nước biển dâng cao 1m thì nhiều diện tích chuyên trồng lúa 2 vụ/năm sẽ không thể sản xuất được do nước mặn tràn vào.
Thực tế thì hiện nay, tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, mức độ nhiễm mặn trên 0,4% đã lấn sâu vào 30-40 km tại một số nơi. Diện tích bị mặn trên 0,4% hiện nay là khoảng 1.303 nghìn ha. Diện tích này sẽ tăng lên 1,493 triệu ha ứng với kịch bản nước biển dâng 0,69 m và 1,637 triệu ha với kịch bản nước biển dâng 1m.
Còn với vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc, sẽ phải đối mặt với nguy cơ tăng cường độ hạn hán do biến đổi khắc nghiệt của thời tiết trong những năm tới. Tại Bắc Trung Bộ, trong tháng 5,6 có thể trở thành các tháng khô nóng thường xuyên như ở Nam Trung Bộ, mưa phùn trở nên hiếm hoi.
Riêng với khu vực miền Trung, Tây Nguyên, tính bất ổn trong chế độ mưa cũng tăng lên khiến vùng này có khả năng đối mặt với nguy cơ hạn hán bất thường. Và sự thực thì thời gian qua, trong vụ Đông Xuân 2012-2013, vụ Hè thu năm 2013, vùng này đã thiếu nước trầm trọng và buộc phải chuyển đổi hàng trăm nghìn ha trồng lúa sang trồng các loại cây con khác.
Nhiều giải pháp được triển khai
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát, trong những năm qua, với Việt Nam, việc phát thải khí nhà kính từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trên 43%; trong đó canh tác lúa nước gần 58%, sử dụng đất nông nghiệp chiếm 22%, chăn nuôi và chất thải chăn nuôi chiếm 12%. Nhằm đối phó với tình trạng này, trong giai đoạn từ năm 2008-2012, Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp nhằm góp phần hạn chế sự gia tăng tốc độ BĐKH toàn cầu, thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp xanh và bền vững.
Cụ thể, một loạt các chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với nước biển dâng và BĐKH như xây dựng giải pháp quy hoạch đảm bảo 3,8 triệu ha diện tích đất lúa, trong đó 3,2 triệu ha đất canh tác 2 vụ, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; giảm phát khí thải nhà kính qua kỹ thuật 3 giảm, 3 tăng, 1 phải 5 giảm sử dụng tiết kiệm chi phí đầu vào; thúc đẩy quy trình VietGAP trong chăn nuôi; Cải tiến kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động khai thác thủy hai sản; Đẩy mạnh trồng rừng, phục hồi rừng, xúc tiến tái sinh và làm giàu từ rừng.
 Mưa lớn bất thường và ngập lụt diễn ra ở nhiều nơi. Ảnh: Ngọc Thọ |
Các bộ ngành cũng đã quy hoạch chống ngập cho các thành phố lớn như TP HCM, Hà Nội, Cần Thơ, Cà Mau, và Hải Phòng. Nhiều biện pháp lồng ghép BĐKH và nước biển dâng được lồng ghép vào chương trình nâng cấp đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang trong nỗ lực phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai từ BĐKH.
Theo số liệu của Bộ NN & PTNT, tính chung giai đoạn 2008 – 2012, đã có 567,7 triệu USD dành cho các dự án chống chọi lại BĐKH. Trong đó, hầu hết đều được tài trợ bởi các đối tác quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Tổ chức Nông lương Quốc tế của Liên Hiệp Quốc (FAO), Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), Chương trinh Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), chính phủ Úc, Đức và Na Uy.v.v..
Tương lai, cần sẵn sàng cho mọi tình huống
Tuy nhiên, theo các chuyên gia nghiên cứu về BĐKH, dù đã có những nỗ lực nhất định nhưng công tác thích ứng với BĐKH nhưng thời gian qua công tác này vẫn gặp những hạn chế bởi nguồn tài trợ quốc tế chưa đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư lớn trong nước; năng lực tiếp nhận và triển khai các gói hỗ trợ quốc tế của các bộ ngành liên quan chưa đáp ứng được yêu cầu, việc thực hiện còn chậm, giảm hiệu quả của nguồn tài trợ; thiếu hệ thống pháp luật cho BĐKH và thích ứng với BĐKH trong nông nghiệp.
“Ngành nông nghiệp sẽ cần phải tính toán tái cơ cấu sản xuất trồng trọt theo hướng chiến lược lâu dài ứng phó với BĐKH, đó là các hiện tượng: Mất đất, nhiễm mặn, thời tiết cực đoan và các đe dọa bất lợi của ngành sản xuất lúa nước trong tương lai. Đối với quy mô địa phương, các lực lượng cơ sở cần tăng cường các biện pháp canh tác, các phương thức sản xuất nông nghiệp đa mục tiêu như an ninh lương thực, tăng thu nhập cho nông hộ và giảm phát thải khí nhà kính. Ngoài ra, việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn kết hợp với quy hoạch tổng thể vùng sản xuất cũng những giải pháp nhằm phát triển bền vững cho nền nông nghiệp trước thách thức của BĐKH.” - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT Phạm Đồng Quảng nhìn nhận.
Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Lê Công Thành cho rằng, hiện, nguồn năng lượng trên mới khai thác được rất ít, chủ yếu vẫn dựa vào nguồn năng lượng hóa thạch. Để thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh năng lượng, vấn đề xem xét đầu tiên là đa dạng hóa các nguồn cung cấp và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, sinh học, hay phế thải của nông nghiệp để sản xuất điện.
Dưới góc độ chuyên gia với nhiều kinh nghiệm tham vấn cho Chính phủ các nước về ứng phó với BĐKH, ông Bakhodir Burkhanov - Phó Giám đốc Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam cho rằng, đối phó với BĐKH thì việc chuẩn bị nguồn lực tài chính là rất quan trọng, và để có được nguồn tài chính đảm báo cho ứng phó hiệu quả với BĐKH, các bộ ngành Việt Nam như Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính cần tranh thủ tận dụng để nắm bắt được tất cả các cơ hội tài chính sẵn có. Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, hay Bộ Xây dựng sẽ sử dụng những nguồn tài chính này cùng với chính quyền các địa phương nhằm đưa công tác ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm thiểu khí thải hiệu ứng nhà kính trở thành một trọng tâm đầu tư.
Thứ đến, dù rằng nguồn tài chính quốc tế là quan trọng, nhưng nguồn tài chính trong nước và của tư nhân sẽ là các nguồn chính cho đầu tư nhằm ứng phó và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu.
Và cuối cùng, theo ông Bakhodir Burkhanov, Việt Nam cần phải có các cơ chế kế toán và báo cáo minh bạch về việc sử dụng nguồn tài chính cho khí hậu, đối với cả hai nguồn kinh phí trong nước và ngoài nước. Đây là vấn đề thiết yếu nhằm tăng cường tối đa khả năng tiếp cận với tài chính cho khí hậu, trong đó có việc đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt nhằm đảm bảo “tiếp cận trực tiếp” với tài chính cho khí hậu, theo đó tài chính cho khí hậu không đi qua tay các cơ quan đa phương hay song phương mà đến thẳng với các đơn vị Nhà nước.
Biến đổi khí hậu (Climate Change): Là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định, tính bằng thập kỷ hay hàng triệu năm. Sự biển đổi có thế là thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự biến đổi khí hậu có thế giới hạn trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện trên toàn địa cầu. |