Tin ngành Điện

Giải quyết hài hòa bài toán năng lượng - nước

Thứ sáu, 4/4/2014 | 13:52 GMT+7
Có nước mới có năng lượng và có năng lượng thì nước mới có thể được cấp nước phục vụ tưới tiêu và cấp nước đến các hộ tiêu dùng. Do vậy, làm sao để giải quyết hài hòa giữa phát triển năng lượng và tối ưu hóa giá trị của nguồn nước luôn là thách thức đặt ra với các nhà quản lý
Sử dụng tiết kiệm để bảo vệ nguồn nước
Hiện, các hoạt động sản xuất điện từ thủy điện, nhiệt điện đến điện nguyên tử đều cần tiêu thụ nước. Và khoảng 8% lượng điện sản xuất trên toàn thế giới được dùng để bơm nước, xử lý nước và chuyển nước đến cho các hộ tiêu thụ.

Có thể hiểu đơn giản, khi có vấn đề về nguồn nước, thì phát triển điện năng sẽ bị ảnh hưởng. Cụ thể, hiện nay, thủy điện chiếm từ 15-20% tổng sản lượng điện của thế giới và chiếm tới 95% tổng sản lượng năng lượng tái tạo. Đối với Việt Nam, tính đến hết 2013, thủy điện chiếm 43,81% tổng sản lượng điện, một năm cung cấp hơn 50 tỷ kwh cho nhu cầu phụ tải của cả nước. 
Với các nhà máy thủy điện, nguồn nước là quý giá. Ảnh: Ngọc Thọ
 
Theo ông Nguyễn Tài Anh - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam thì nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là không ngừng do đó nhu cầu nước và năng lượng cũng tăng theo. Việc gián đoạn cung cấp điện chỉ vài giờ cũng gây ra các thiệt hại hàng trăm triệu đô la, các hoạt động y tế, chăm lo sức khỏe cho người dân bị đình trệ, các hoạt động cộng đồng, an ninh, trật tự bị ảnh hưởng.v.v. Tuy nhiên, các nguồn tạo ra và truyền tải năng lượng điện đều phải sử dụng và tác động ít nhiều đến tài nguyên nước, đặc biệt thủy điện, nhiệt điện, điện hạt nhân, kể cả năng lượng sinh học đang được phát triển gần đây cũng làm gia tăng nhu cầu về nước. Theo cơ quan năng lượng quốc tế dự báo việc sử dụng năng lượng sinh học sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng nước lên 20% so với tổng lượng nước cho nông nghiệp toàn thế giới. Do đó có thể nói nhu cầu về nước và nhu cầu về năng lượng tăng theo sự phát triển của kinh tế- xã hội.
 
Ông Tài Anh cũng nhìn nhận, biến đổi khí hậu sẽ gây ảnh hưởng đến việc sử dụng năng lượng. Cụ thể đó là những thách thức do biến đổi khí hậu, gia tăng dân số sẽ gia tăng nhu cầu sử dụng nước và các nguồn tài nguyên sơ cấp, gây mất cân bằng giữa nguồn tài nguyên nước và năng lượng. Một trong những giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu là việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính. Nâng cao nhận thức của cộng đồng, xây dựng ý thức sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả, đưa hoạt động sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả vào cuộc sống hàng ngày của mọi gia đình và xã hội… Thời gian qua, theo ông Tài Anh có những chương trình thực hiện hiệu quả là: Chương trình bóng đèn compact, đến hết 2010 đã tiêu thụ hết 31 triệu bóng đèn compact, đổi 1 triệu bóng đèn compact cho các hộ nghèo; chương trình quảng bá thúc đẩy sử dụng bình đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời, chương trình tuyên truyền tiết kiệm điện vào giờ cao điểm đối với cộng đồng….
 
Đặc biệt, liên quan tới việc quản lý tài nguyên nước – năng lượng, hàng năm EVN luôn tích cực, chủ động phối hợp với Tổng Cục thủy lợi, Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn, các Sở Nông nghiệm và phát triển nông thôn ... để cấp nước phục vụ cho công tác tưới tiêu. Cụ thể vụ đông xuân năm 2013-2014 các hồ chứa thủy điện khu vực phía Bắc đã được nhận 5,77 tỷ m3 nước để tưới cho hơn 600 ngàn ha đất nông nghiệp. Trong đó từ hồ Hòa Bình là 3,86 tỷ m3; từ hồ Tuyên Quang là 1.117 tỷ m3 , từ hồ Thác Bà là 0,74 tỷ m3. Kết thúc 3 đợt xả nước phục vụ vụ Đông Xuân 2013 - 2014, mức nước hồ thuỷ điện Hoà Bình giảm 15,09m, hồ Thác Bà giảm 3,05m, hồ Tuyên Quang giảm 11,30m. Mức nước tại Hà Nội trong thời gian lấy nước đạt mức cao từ 2,2 - 2,6 m.
 
Thủy điện đóng góp lớn
Là đơn vị quản lý hiệu quả Nhà máy Thủy điện Đồng Nai 3 và Đồng Nai 4, ông Phạm Văn Cúc – Giám đốc Công ty Thủy điện Đồng Nai nhìn nhận khách quan: Không chỉ đem lại lợi ích to lớn trong sản xuất điện, các hồ chứa thủy điện còn có khả năng phòng lũ lớn đã góp phần tích cực trong việc chủ động cắt, giảm lũ bảo vệ và thúc đẩy kinh tế vùng hạ du. Đồng thời các hồ chứa thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai đã đóng góp rất lớn cho việc phân bổ nguồn nước cho các tỉnh bị khô hạn của Nam Trung Bộ và cấp nước đảm bảo cho sinh hoạt, sản xuất và môi trường cho hạ du về mùa khô. 
 

Thủy điện giúp phân bổ nguồn nước cho hạ du một cách hợp lý. Ảnh: Ngọc Thọ

 
Theo ông Cúc, cùng với việc tham gia chống lũ các nhà máy thủy điện đã tích cực, chủ động điều tiết bổ sung lưu lượng góp phần rất lớn trong việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho vùng hạ du. Nhà máy TĐ Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Đắk Tih đảm bảo cung cấp nước phục vụ cho các huyện Cát Tiên và huyện Đạ Tẻh của tỉnh Lâm Đồng vào mùa khô đảm bảo lưu lượng bình quân 60-70m3/s. Nhà máy thủy điện Hàm Thuận Đa Mi đảm bảo cung cấp nước phục vụ sinh hoạt sản xuất cho 17.000ha đất sản xuất nông nghiệp cho huyện Tánh Linh và huyện Đức Linh của tỉnh Bình Thuận, đặc biệt trong mùa khô luôn duy trì lưu lượng 25 - 35m3/s. Thủy điện Trị An luôn duy trì lưu lượng 100m3/s vào mùa khô để đảm bảo đẩy mặn cho vùng hạ du.
 
Ông Cúc cũng cho hay, hệ thống sông Đồng Nai có nguồn nước dồi dào việc khai thác nguồn nước một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng. Hai bậc thang trên cùng của hệ thống thực hiện chức năng vừa phát điện nhưng đồng thời cũng vừa phân chia nguồn nước cho các tỉnh cực Nam Trung Bộ của nước ta, nơi có lượng mưa thấp nhất cả nước. Thủy điện Đa Nhim được đưa vào vận hành năm 1963 với công suất lắp đặt 160MW, sản lượng điện bình quân 1 tỷ kWh và mỗi năm cung cấp cho tỉnh Ninh Thuận 550 triệu m3 nước phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho trên 40.000ha của các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước, TP. Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Nhà máy thủy điện Đại Ninh đưa vào vận hành năm 2008 với công suất lắp đặt 300MW, sản lượng điện bình quân 1,1 tỷ KWh và hàng năm cung cấp 750 triệu m3 nước phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho trên 31.000ha cho các huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, TP Phan Thiết của tỉnh Bình Thuận. Như vậy hai dự án thủy điện này đã phân chia nguồn nước cho hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận với 1,3 tỷ m3 nước mỗi năm đảm bảo phục vụ sinh hoạt, sản xuất của 6 huyện, thị và đặc biệt chống được hiện tượng sa mạc hóa của hai tỉnh cực Nam Trung bộ. Và việc hai bậc thang Thủy điện Đa Nhim và Thủy điện Đại Ninh chuyển nước về các lưu vực khác thì các bậc thang dưới là Đồng Nai 2 và Đồng Nai 3 đã đảm nhận nhiệm vụ tích ở các hồ này vào mùa mưa hơn 1 tỷ m3 để vừa điều tiết lũ đồng thời vừa đảm bảo dòng chảy cao cho mùa khô năm sau.
 
“Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của thủy điện đối với nhiệm vụ bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng cũng cần nghiên túc nhìn nhận những mặt còn hạn chế trong quản lý, vận hành, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 62 của Quốc hội và Chương trình hành động của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện nhằm quản lý chặt chẽ khai thác thủy điện, khắc phục những hạn chế, yếu kém, phát huy những lợi thế của thủy điện. Trong đó, những nhiệm vụ trọng tâm là cần tập trung rà soát quy hoạch thủy điện để dừng đầu tư xây dựng các dự án hiệu quả thấp, tăng cường quản lý đầu tư các hồ thủy điện; xây dựng các quy trình vận hành liên hồ chứa phù hợp cả trong mùa lũ và mùa kiệt để phối hợp vận hành các hồ chứa đảm bảo hài hòa về lợi ích của các đối tượng sử dụng nước, trước hết là đảm bảo an toàn cho người dân, chống suy thoái môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.” – Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khẳng định tại Lễ mít tinh quốc gia hưởng ứng Ngày Nước Thế giới 22/3 vừa qua.