
Đường dây 500kV là kỳ tích của EVN. Ảnh: Ngọc Thọ
Từ một miền Nam thiếu điện trầm kha
Theo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, nhìn lại bối cảnh những năm đầu của thập kỷ 90, hệ thống điện của nước ta còn chưa được kết nối thống nhất và bộc lộ nhiều bất cập. Việt đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển KT-XH của đất nước là một yêu cầu hết sức cấp thiết, đặc biệt là đối với khu vực miền Nam – là khu vực phát triển kinh tế mạnh mẽ và năng động, nhu cầu điện tăng cao, nhưng lại luôn phải đối mặt với tình trạng thiếu điện, cắt điện luân phiên do nguồn điện chỉ đáp ứng tối đa được 50-60% nhu cầu. Một số khu vực miền Trung cũng phải sử dụng nguồn điện chạy bằng dầu diesel và nhận điện từ miền Bắc qua đường dây 110 kV, điện áp rất thấp, trong khi đó ở miền Bắc lại có hiện tượng “thừa điện”, do đưa vào vận hành nhà máy thủy điện Hòa Bình tổ máy thứ nhất vào năm 1988 và toàn bộ vào năm 1994, các nhà máy nhiệt điện đốt than Phả Lại, Uông Bí, Minh Bình phải huy động với công suất thấp, nhiều thời gian phải ngừng huy động.
Việc nghiên cứu xây dựng công trình đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 1 để truyền tải điện năng dư thừa từ miền Bắc cấp điện cho miền Trung và miền Nam đang trong tình trạng thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên kết hệ thống điện cục bộ ba miền thành một hệ thống điện thống nhất đã được đặt ra. Thủ tướng Chính phủ khi đó là Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã yêu cầu làm rõ 3 vấn đề khi xây dựng đường dây 500 kV, đó là tính khả thi về công nghệ, hiệu quả kinh tế và tính an toàn. Bởi vì bỏ ra gần 5.500 tỷ đồng (towng đương 544 triệu USD) vào thời điểm năm 1992 để đầu tư công trình là một vấn đề rất lớn đối với NSNN khi ấy.
Phó Thủ tướng nhớ lại, sau rất nhiều hội thảo khoa học, rà soát, tham vấn các nhà khoa học trong và ngoài nước, trên cơ sở luận chứng khoa học chặt chẽ, ngày 25/2/1992, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật Dự án Đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 1 với yêu cầu phải hoàn thành trong vòng 2 năm.
Việc xây dựng và hoàn thành Đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 1 có chiều dài lớn (1.487 km), công nghệ phức tạp trong một thời gian ngắn kỷ lục trong bối cảnh 20 năm trước đã trở thành kỳ tích của ngành điện Việt Nam. Đưa đường dây vào vận hành thành công, chúng ta đã xóa bỏ đi những hồ nghi, e ngại ban đầu và quan trọng nhất là chúng ta đã có một hệ thống điện quốc gia hợp nhất, từ đó đảm bảo việc vận hành kinh tế các nhà máy điện trong cả nước, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đủ điện cho sự nghiệp phát triển đất nước.Ngày 05/4/1992, công trình được khởi công và sau 2 năm lao động cần cù sáng tạo, không quản ngày đêm của cán bộ, công nhân ngành Điện Việt Nam, công trình truyền tải điện siêu cao áp 500 kV đầu tiên tại Việt Nam được hoàn thành và chính thức được đưa vào vận hành, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của ngành Điện lực Việt Nam trong các lĩnh vực: Nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, xây dựng, quản lý vận hành và hợp tác quốc tế.
Để hoàn thành một khối lượng công việc khổng lồ trong thời gian 2 năm là sự đóng góp rất lớn của CBCNV các Công ty xây lắp 1, 2, 3, 4, Tổng công ty Sông Đà và hỗ trợ rất lớn của lực lượng quân đội bao gồm Binh đoàn 12, Binh đoàn 15, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân đoàn 1, Quân đoàn 3 và nhiều đơn vị khác, cũng như sự giúp đỡ và tạo điều kiện mọi mặt của chính quyền 17 tỉnh, thành phố và người dân trong khu vực có công trình đi qua.
Ngày 27/5/1994, được đánh dấu là một ngày trọng đại của hệ thống truyền tải điện Việt Nam. Đúng 19 giờ 07 phút, tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện Việt Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại Trạm 500 kV Đà Nẵng qua đường dây 500kV, chính thức đưa hệ thống 500kV vào vận hành.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải dự Lễ kỷ niệm. Ảnh: Ngọc Thọ
Vươn lên thành đầu tàu kinh tế
Với việc đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 đã giải quyết căn bản tình trạnh thiếu điện của miền Nam và miền Trung đã được minh chứng qua các số liệu đó là: Điện thương phẩm của toàn quốc với mức độ tăng trưởng từ 5 - 6% giai đoạn 1990 - 1992 đã có mức tăng trưởng đột biến lên 18,2% giai đoạn 1993 - 1997 với đỉnh điểm là 21% năm 1995, trong đó khu vực miền Trung và miền Nam là 21% giai đoạn 1993 - 1997 và năm 1995 là 25%. Với những đóng góp trên là một phần không nhỏ để nền kinh tế của đất nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP từ 5,1% vào năm 1990 lên 9,5% vào năm 1995, trong đó tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt từ 12% đến 14% trong giai đoạn 1990 - 1995, vượt các chỉ tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
Sau hơn 10 năm vận hành đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, ngày 23/9/2005 ngành Điện Việt Nam lại đánh dấu một kỳ tích, hoàn thành đóng điện đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2 (từ Nho Quan đến Phú Lâm). Với việc đưa vào vận hành 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam đã giải quyết thiếu điện rất lớn ở miền Bắc và đặc biệt là Hà Nội trong giai đoạn 2005-2008. Ngoài ra, 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam đã thực sự là ”trục xương sống” của hệ thống truyền tải điện quốc gia theo cả hai chiều, nâng cao độ an toàn, ổn định cung cấp và chất lượng điện, đồng thời tạo điều kiện để khai thác tối ưu các nguồn điện hiện có trong hệ thống.
Sau 20 năm vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 và gần 10 năm đường dây 500kV mạch 2, mặc dù công trình đi qua nhiều địa hình khó khăn và hiểm trở nhưng CBCNV Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), luôn đảm bảo hệ thống lưới điện truyền tải Bắc - Nam được thông suốt, các chỉ tiêu suất sự cố và thời gian ngừng cung cấp ở mức thấp hơn so với thiết kế. Đến nay, cùng với đường dây 500kV mạch 2, lượng công suất truyền tải trên 2 mạch đường dây đảm bảo vận hành 1600 - 1800MW với sản lượng truyền tải trên 12 tỷ kWh/năm, cao gấp 6 lần so với khi đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 đưa vào vận hành.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cho hay: Việc xây dựng và hoàn thành đường dây 500 kV Bắc-Nam mạch 1 có chiều dài lớn (1.487 km), công nghệ phức tạp trong một thời gian ngắn kỷ lục trong bối cảnh 20 năm trước đã trở thành kỳ tích của ngành Điện Việt Nam. Đưa đường dây vào vận hành thành công, chúng ta đã xóa bỏ đi những hồ nghi, e ngại ban đầu và quan trọng nhất là chúng ta đã có một hệ thống điện quốc gia hợp nhất, từ đó đảm bảo việc vận hành kinh tế các nhà máy điện trong cả nước, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đủ điện cho sự nghiệp phát triển đất nước. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mong muốn ngành Điện phát huy truyền thống, thành tựu đạt được, nỗ lực hơn nữa, tiếp tục phát triển nhanh và mạnh hơn nữa về nguồn điện cũng như hệ thống lưới truyền tải để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế - xã hội.
Tổng kết 20 năm vận hành Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khẳng định việc đầu tư đường dây là một quyết định đúng đắn, kịp thời của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Việc xây dựng và đưa vào vận hành Đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 đã đem lại các lợi ích chính:
1. Giải quyết căn bản tình trạng thiếu điện của các khu vực miền Nam, miền Trung, góp phần quan trọng trong việc phát triển KT-XH của đất nước. Sau khi Đường dây 500kV Bắc – Nam đóng điện thì điện thương phẩm của toàn quốc từ mức tăng trưởng bình quân 8,2%/năm giai đoạn 1990-1993 đã tăng đột biến lên đến 18,2%/năm trong giai đoạn 1993 – 1997; trong đó khu vực miền Trung và miền Nam tăng bình quân là 21%/năm giai đoạn 1993-1997 và 25% năm 1995. Phát triển của ngành điện trong thời kỳ này cùng với chính sách đổi mới trong giai đoạn này đã góp phần vào phát triển kinh tế của đất nước, đưa tốc độ tăng GDP từ 5,1% năm 1990 lên 9,5% năm 1995, vượt các chỉ tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
2. Góp phần quan trọng trọng việc hình thành hệ thống truyền tải điện bền vững: Đường dây đã liên kết hệ thống điện 3 miền Bắc – Trung – Nam thành hệ thống điện thống nhất, làm nền tảng cho lưới điện truyền tải phát triển phủ khắp đất nước. Nếu như năm 1994, lưới điện truyền tải (chỉ tính các cấp điện áp 220, 500KV) trên cả nước mới chỉ có 3.400 km đường dây, tổng dung lượng máy biến áp 500-220kV là 3.655 MVA, thì sau 20 năm, cả nước có 18.657km đường dây, tăng 5,5 lần, 96 trạm biến áp có tổng dung lượng trên 50.600 MVA, tăng 13,8 lần.
3. Góp phần phát triển khoa học và công nghệ của đất nước: Khi xây dựng Đường dây này, lần đầu tiên chúng ta sử dụng các công nghệ mới như cáp quang, là tiền đề hợp nhất hệ thống công nghệ thông tin toàn quốc, các thiết bị điều khiển, bảo vệ kỹ thuật số, các thiết bị bảo vệ song song với nhau. Đặc biệt là chất lượng kỹ thuật công trình, trong đó có hệ thống bảo vệ sự cố và hệ thống tự động hóa được đặt lên hàng đầu. Những thành tựu khoa học, kỹ thuật từ công trình này đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển khoa học – công nghệ truyền tải điện của Việt Nam.
4. Phát huy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam và phát triển ngành công nghiệp xây dựng điện của Việt Nam: Công tác thiết kế, thi công công trình đường dây 500 kV chủ yếu do các doanh nghiệp của Việt Nam thực hiện. Qua công trình này, các đơn vị thiết kế, các doanh nghiệp xây lắp của Việt Nam đã có bước trường thành, đảm đương thực hiện được các công trình điện phức tạp, quy mô lớn.
5. Sau Đường dây 500kV, Việt Nam đã có được một đội ngũ cán bộ trưởng thành, qua thử thách, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kỹ thuật, đến lực lượng công nhân thi công xây lắp, vận hành, sửa chửa hệ thống truyền tải điện.
Để đảm bảo điện mùa khô năm 2014 và những năm tiếp theo cho khu vực miền Nam (do các nhà máy điện ở miền Nam vì rất nhiều lý do bị chậm tiến độ), Đường dây 500kV Pleilu - Mỹ Phước - Cầu Bông với quy mô 437,5 km (hai mạch) và Trạm 500kV Cầu Bông được khởi công xây dựng từ 23/10/2011 và hoàn thành đóng ngày 05/5/2014. việc đưa vào vận hành đường dây 500kV Pleilu - Mỹ Phước - Cầu Bông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, được xác định là đường dây 500kV mạch 3 của hệ thống lưới truyền tải điện Bắc – Nam. Qua đó tăng khả năng truyền tải đoạn từ Pleiku vào miền Nam lên 2.300MW ngay khi đưa vào vận hành để đảm bảo đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội khu vực miền Nam, làm cơ sở để hình thành hệ thống liên kết lưới điện truyền tải 500kV của Việt Nam với lưới điện trong khu vực. |