Tin nội bộ

Phát triển Thủy điện bền vững trên hệ thống sông Đồng Nai

Thứ ba, 25/3/2014 | 08:03 GMT+7
Phát triển thủy điện ở nước ta trong thời gian qua đã đóng góp rất lớn cho cơn khát năng lượng của đất nước, trong năm 2013 thủy điện đạt trên 58,17 tỷ kWh và đạt 45% sản lượng điện của cả nước. Việc nhìn nhận phát triển thủy điện cần phải được xem xét một cách đa chiều về những tác động tích cực, tiêu cực để từ đó có đánh giá đúng nhằm hạn chế những rủi ro có thể gây ra, đồng thời phát huy giá trị tích cực trong tất cả các khâu từ lập qui hoạch - thiết kế - thi công và quản lý vận hành.

Một vài năm trở lại đây đã có nhiều băn khoăn, lo lắng về một số dự án thủy điện nhỏ kéo theo những đánh giá thiên lệch, không thiện cảm khi nói đến thủy điện. Để có cái nhìn đa chiều, tham luận này tập trung vào điển hình về khai thác thủy điện bền vững trên hệ thống sông Đồng Nai trong nửa thế kỷ qua.
Sơ đồ bậc thang thủy điện
 
Tổng quan
Hệ thống sông Đồng Nai nằm ở khu vực Nam Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ bao gồm dòng chính là sông Đồng Nai bên tả ngạn có nhánh sông La Ngà và bên hữu ngạn có nhánh sông Bé. Đây là hệ thống sông lớn thứ ba của nước ta và có lưu vực hoàn toàn nằm trong nội địa, với nguồn thủy năng rất dồi dào, theo qui hoạch toàn bộ hệ thống sông có 21 nhà máy công suất từ 20MW trở lên. Sau 50 năm kể từ thời điểm nhà máy thủy điện Đa Nhim (160MW) là nhà máy đầu tiên đi vào vận hành đến nay trên hệ thống sông có 16 nhà máy đã hoàn thành xây dựng và đưa vào vận hành với tổng công suất lắp đặt 2.480MW (trong đó EVN đầu tư 8 nhà máy với 2.005MW), sản lượng điện bình quân hàng năm đạt trên 9,7 tỷ kWh.

Không chỉ đem lại lợi ích to lớn trong sản xuất điện, các hồ chứa có khả năng phòng lũ lớn đã góp phần tích cực trong việc chủ động cắt, giảm lũ bảo vệ và thúc đẩy kinh tế vùng hạ du. Đồng thời các hồ chứa thủy điện đã đóng góp rất lớn cho việc phân bổ nguồn nước cho các tỉnh bị khô hạn của Nam Trung Bộ và cấp nước đảm bảo cho sinh hoạt, sản xuất và môi trường cho hạ du về mùa khô. 

Qua thực hiện các dự án thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai ngoài việc đảm bảo phát điện các dự án đã góp phần không nhỏ vào các lợi ích tổng hợp như qui hoạch phê duyệt, trong đó một số tác động tích cực được thể hiện dưới đây:

Cắt, giảm lũ vào mùa mưa và cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất cho vùng hạ du vào mùa khô
Được sự chỉ đạo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ tháng 3/2011 các nhà máy trên hệ thống sông Đồng Nai đã ký cơ chế phối hợp vận hành xã lũ các hồ chứa vì vậy với sự phối hợp tốt với địa phương nên trong các năm qua không để xảy ra tình trạng ngập lụt do xả lũ. Điển hình từ khi Thủy điện Đại Ninh tích nước (2007) và đặc biệt Thủy điện Đồng Nai 3 đi vào vận hành (2010) đã chấm dứt tình trạng ngập lụt tại các huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh của tỉnh Lâm Đồng, đồng thời làm giảm gánh nặng cho thủy điện Trị An phải xả lũ vào mùa mưa, đặc biệt trong các dịp triều cường ảnh hưởng trực tiếp đến Thành phố Hồ Chí Minh; Đồng Nai.

Cùng với việc tham gia chống lũ các nhà máy thủy điện đã tích cực, chủ động điều tiết bổ sung lưu lượng góp phần rất lớn trong việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho vùng hạ du. Nhà máy TĐ Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Đắk Tih đảm bảo cung cấp nước phục vụ cho các huyện Cát Tiên và huyện Đạ Tẻh của tỉnh Lâm Đồng vào mùa khô đảm bảo lưu lượng bình quân 60-70m3/s. Nhà máy thủy điện Hàm Thuận Đa Mi đảm bảo cung cấp nước phục vụ sinh hoạt sản xuất cho 17.000ha đất sản xuất nông nghiệp cho huyện Tánh Linh và huyện Đức Linh của tỉnh Bình Thuận, đặc biệt trong mùa khô luôn duy trì lưu lượng 25 - 35m3/s. Thủy điện Trị An luôn duy trì lưu lượng 100m3/s vào mùa khô để đảm bảo đẩy mặn cho vùng hạ du...

Để đảm bảo vận hành an toàn các hồ chứa trên lưu vực sông Đồng Nai, hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai xây dựng Qui trình vận hành liên hồ chứa cho cả hệ thống sông để sớm trình Chính phủ phê duyệt. Hy vọng rằng khi qui trình này được thực thi các hồ chứa sẽ phát huy cao hiệu quả tổng hợp của cả hệ thống trong đó  cần chú trọng đến việc cắt giảm lũ, chống hạn và đảm bảo môi sinh môi trường cho vùng lòng hồ và hạ du của các dự án.

Phân chia hợp lý nguồn nước cho lưu vực khô hạn
Hệ thống song Đồng Nai có nguồn nước dồi dào việc khai thác nguồn nước một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng. Hai bậc thang trên cùng của hệ thống thực hiện chức năng vừa phát điện nhưng đồng thời cũng vừa phân chia nguồn nước cho các tỉnh cực Nam Trung Bộ của nước ta, nơi có lượng mưa thấp nhất cả nước. Thủy điện Đa Nhim được đưa vào vận hành năm 1963 với công suất lắp đặt  160MW, sản lượng điện bình quân 1 tỷ kWh và mỗi năm cung cấp cho tỉnh Ninh Thuận 550 triệu m3 nước phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho trên 40.000ha của các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước, TP. Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Nhà máy thủy điện Đại Ninh đưa vào vận hành năm 2008 với công suất lắp đặt 300MW, sản lượng điện bình quân 1,1 tỷ KWh và hàng năm cung cấp 750 triệu m3 nước phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho trên 31.000ha cho  các huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, TP Phan Thiết của tỉnh Bình Thuận. Như vậy hai dự án thủy điện này đã phân chia nguồn nước cho hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận với 1,3 tỷ m3 nước mỗi năm đảm bảo phục vụ sinh hoạt, sản xuất của 6 huyện, thị và đặc biệt chống được hiện tượng sa mạc hóa của hai tỉnh cực Nam Trung bộ.

Việc hai bậc thang Thủy điện Đa Nhim và Thủy điện Đại Ninh chuyển nước về các lưu vực khác thì các bậc thang dưới là Đồng Nai 2 và Đồng Nai 3 đã đảm nhận nhiệm vụ tích ở các hồ này vào mùa mưa hơn 1 tỷ m3 để vừa điều tiết lũ đồng thời vừa đảm bảo dòng chảy cao cho mùa khô năm sau. 

Phát triển thủy điện theo cơ chế sạch CDM (Clean Development Mechanism)
Việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo được các nước khuyến khích phát triển trong đó có nguồn thủy điện. Đến nay nhiều nhà máy trên hệ thống sông Đồng Nai đã đăng ký thành công tại Liên hợp Quốc về phát thải khí CO2 như dự án Thủy điện Đồng Nai 4 (340MW), Thủy điện Đăk Tih (144MW), Thủy điện Dambri (75MW), Thủy điện Đa Dâng (34MW) và các dự án đang trong quá trình xem xét hồ sơ như Đồng Nai 2(70MW), Đồng Nai 5 (150MW). Các dự án này minh chứng cho việc thủy điện phát triển một cách bền vững theo các tiêu chuẩn của thế giới.
 
Đập Thủy điện Đồng Nai 3
Trồng rừng và bảo vệ rừng
Từ năm 2011, thực hiện Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ, mỗi năm các nhà máy điện nộp phí dịch vụ môi trường rừng 194 tỷ đồng cho Quĩ Phát triển rừng Trung ương và quĩ của các địa phương, trong đó các dự án của EVN đã đóng góp 153,4 tỷ đồng. Đây là nguồn phí đáng kể để cho các đơn vị và nhân dân dùng để chăm sóc và bảo vệ và phát triển rừng  đầu nguồn. Theo ông Trần Mộng Hùng - Phó ban Thường trực Ban chỉ đạo Tây nguyên, qua thí điểm chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại tỉnh Lâm Đồng mức khoán bảo vệ rừng cho các hộ dân tăng từ 2,8-3 triệu đồng lên 10,5-12 triệu đồng, góp phần thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo cho người dân đồng thời tăng diện tích nhận khoán rừng và góp phần bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn.

Công tác trồng bù rừng được thực hiện theo Nghị định 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ, các dự án của EVN đầu tư từ 2006 trở về sau này đã và đang triển khai trồng bù rừng theo qui định. Dự án Thủy điện Đại Ninh là một trường hợp điển hình từ năm 2003 dự án được khởi công xây dựng và việc trồng rừng theo chương trình IPDP với diện tích 500ha do tỉnh Lâm Đồng thực hiện. Các dự án thủy điện Đồng Nai 3 - Đồng Nai 4 đang triển khai các thủ tục theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để trồng khoảng 1.000ha rừng như Báo cáo đánh giá môi trường đã xác định.

Tuy có những nổ lực của các tỉnh trong vùng về chăm sóc và bảo vệ rừng đầu nguồn, tuy nhiên rừng tự nhiên ở các tỉnh vùng nam Tây Nguyên đã suy giảm khá nhanh do những năm gần đây xâm lấn của để trồng cà phê cao su làm cho thảm thực vật giảm làm cho dòng chảy đã có nhiều biến đổi đặc biệt dòng chạy về mùa kiệt.

Việc xây dựng các nhà máy thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai tuy còn những vấn đề cần tiếp tục giải quyết như đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân tái định cư, tiếp tục trồng bù rừng đủ theo qui định nhưng không thể phủ nhận được các tác động tích cực mà các dự án này mang lại như đảm bảo nguồn năng lượng, góp phần phát triển kinh tế xã hội và thay đổi căn bản diện mạo đời sống của người dân của toàn vùng. 
Phạm Văn Cúc